Đức Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn nêu lên biểu sự hợp nhất của lòng từ bi và trí tuệ. Nửa thân trên của Đức Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn tượng trưng cho tâm Phật. Tâm đã được chứng ngộ hoàn toàn, không bị che đậy bởi vô minh tăm tối. Các trang sức nêu biểu cho các công hạnh ba la mật.
Tứ đức (từ, bi, hỷ, xả)
Đức Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn có ba lớp tay. Trong cùng là 8 tay tượng trưng cho Pháp thân, lớp ở giữa có 42 tay tượng trưng cho Báo thân. Lớp tay ngoài cùng tượng trưng cho Hóa thân.
Các tay của Đức Quan Âm tượng trưng cho phương tiện. Trên mỗi bàn tay có một con mắt tượng trưng cho trí tuệ. Con mắt trong lòng bàn tay hàm ý sự hợp nhất của phương tiện và trí tuệ Phật. Tám cánh tay ở lớp trong cùng tượng trưng hoa sen tám cánh. Đồng thời tương ứng với tứ trí. (Đại Viên Cảnh trí, Diệu Quan sát trí, Bình đẳng tính trí, Thành sở tác trí) và tứ đức (từ, bi, hỷ, xả).
Hai cánh tay trong cùng của Đức Quan Âm đang ôm ngọc Mani. Ngọc Mani là biểu tượng của sự viên mãn tâm nguyện thế gian và xuất thế gian. Ở ý nghĩa sâu sắc hơn đó là sự giàu có tâm bồ đề. Hình ảnh bàn tay ôm ngọc mani chính là biểu tượng của sự hợp nhất giữa lòng từ bi vô lượng. Kèm với đó là trí tuệ siêu việt của đức Phật.
Các cánh tay còn lại:
Cánh tay cầm chuỗi tràng thủy tinh là biểu tượng của lòng từ bi, sự thanh tịnh. Và việc lần chuỗi tràng chính là sự cứu độ liên tục không ngừng nghỉ của ngài
Cánh tay cầm pháp luân nêu biểu việc ngài mang giáo pháp của Đức Phật ban trải và cứu độ khắp nơi. Chuyển bánh xe pháp vô ngại của đức Quan Âm. (là tượng trưng cho các lần chuyển bánh xe Pháp của Đức Phật vì lợi lạc của hết thảy chúng sinh)
Cánh tay chỉ xuống là biểu tượng cho vô úy thí. Ngài ban gia trì cho chúng sinh vượt qua sự sợ hãi, vượt qua mọi khổ đau phiền não. Bởi vì chúng sinh từ lúc sinh ra đã bị ám ảnh bởi rất nhiều nỗi sợ hãi. (nỗi sợ hãi bao trùm, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết đi: sợ đói, nghèo, bất hạnh, không danh vọng…) Chính vì thế Đức Phật Quan Âm hiện cánh tay thí vô úy để cứu khổ ban vui cho chúng sinh.
Hóa thân của Phật
Cánh tay cầm hoa sen: tượng trưng cho Bồ đề tâm thanh tịnh. Phẩm hạnh giác ngộ của chư Phật, cũng như hoa sen mọc từ bùn mà không nhiễm nhơ. Tiêu biểu cho bản nguyện của ngài vào dời cứu khổ chúng sinh mà không bị chi phối.
Cánh tay cầm cung tên: xạ thủ giương cung. Mắt – cung – đích trên cùng 1 đường tượng trưng cho sự rõ ràng, hợp nhất của căn, đạo quả. (mục đích, con đường tu tập, và thành tựu). Bàn tay của Đức Phật Quan Âm cầm cung tên. Tượng trưng cho sự nhất tâm điều phục tất cả mọi vọng tưởng, giải thoát khỏi luân hồi, đánh bại 4 ma. (tử ma, ngũ ấm ma, phiền não ma, thiên ma).
Cánh tay cầm bình cam lồ: tượng trưng cho năng lượng pháp vị cam lồ. Tượng trưng sự gia trì của chư Phật để diệt trừ tất cả phiền não đau khổ tham sân si của chúng sinh. 42 tay ở giữa nêu biểu báo thân Phật, nêu biểu 42 thánh vị tu chứng. (thập trụ, thập hạnh, thập địa, thập hồi hướng, đẳng giác và diệu giác). Để cứu độ 25 cõi chúng sinh trải qua 42 thánh vị để thành tựu giác ngộ.
Lớp tay ngoài cùng tượng trưng cho hóa thân phật. Đi tất cả các nẻo trong luân hồi để cứu độ chúng sinh. Mắt (trí tuệ) trong lòng bàn tay (phương tiện).
Đức Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn mang trên mình các sức trang hoàng, tương ứng với Ngũ bộ Phật và Ngũ Trí.
Khuyên tai tương ứng với Đức Phật A Di Đà, nêu biểu cho Diệu quan sát trí
Vòng cổ tương ứng với đức Phật Bảo Sinh, nêu biểu cho Bình đẳng tính trí
Các vòng tay tương ứng với Phật Tỳ Lư Giá Na, nêu biểu Pháp giới thể tính trí
Đai lưng Phật tương ứng với Phật Bất Không Thành Tựu, nêu biểu Thành sở tác trí
Mũ (vương miện) tương ứng Phật A Súc Bệ, tiêu biểu Đại viên cảnh trí
Ba lọn tóc của Đức Quan Âm nêu biểu năng lực bi, trí, dũng đồng thời tượng trưng cho tam bình đẳng (Phật, chúng sinh và tâm đều bình đẳng không sai khác).
Tập mở rộng lòng yêu thương
Có nhiều người chỉ thích người khác khen mình, không thích nghe nói đến khuyết điểm, tật xấu của mình. Ðó là ái ngã, yêu cái ngã của mình chứ chưa thương yêu mình.
Đối với những khuyết điểm của mình mà mình còn ghét bỏ, chưa thể dung hòa để rồi chuyển hóa dần. Làm sao có thể cảm thông với những khuyết điểm của người khác được.
Vì thế, để thương yêu mọi người thì mình phải tập thương yêu mình trước đã. Có thương yêu mình thì mình mới có thể phát huy được những ưu điểm. Và khắc phục dần những nhược điểm của mình. Thương mình thì mới hoàn thành tốt bổn phận và trách nhiệm của mình, mới hoàn thiện được mình.
Tiếp theo chúng ta tập mở rộng lòng thương yêu của mình đến những người thân thuộc của mình. Và trải rộng tình thương yêu đến với tất cả mọi người, mọi loài. Kể cả những người đã từng có oán kết với mình.
Đánh giá
Chưa có đánh giá nào.